- Spoiler:
- Tôi đã kể câu chuyện khi
tôi bị bắt, và không ai muốn nghe tôi nói cả. Rồi tôi đã nhắc lại chuyện
đó ở phiên tòa: nói tất cả, đúng hệt như sự việc đã xảy ra, không thêm,
không bớt một chữ nào. Tôi đã nói hết sự thật, tôi xin thề đúng vậy?
Tất cả những gì mà phu nhân Mannering đã nói, tất cả những gì mà tôi đã
nói và đã làm, tôi đã kể lại không thay một dấu phẩy, và tôi đã được lợi
lộc gì trong vụ này? “Phạm nhân đã mải mê trong một lời khai lan man và
không đúng sự thật, không thể tin được vì các chi tiết của nó, và không
dựa trên một sự khởi đầu nào của những bằng chứng hỗ trợ”. Đó là tin mà
một nhật báo ở Luân Đôn đã loan đi. Những nhật báo khác thì lại làm như
tôi không tự bào chữa cho mình. Tuy là chính mắt tôi đã trông thấy ngài
Mannering bị ám sát, và tôi cũng vô tội trong vụ án này như bất cứ một
ủy viên nào trong bồi thẩm đoàn đã kết tội tôi.
Thưa ngài, ngài
là người tiếp nhận đơn xin ân xá của các phạm nhân. Tất cả tùy thuộc vào
ngài. Tôi chỉ xin ngài một điều: đọc lá đơn của tôi, chỉ cần đọc nó
thôi, rồi thực hiện một cuộc điều tra nhỏ về tính tình của vị “phu nhân”
Mannering này, để xem bà ấy có giữ được cái danh hiệu mà bà ấy đã mang
từ ba năm trước, khi tôi gặp bà ấy để chuốc lấy tù tội và sự tan nát của
đời tôi. Ngài sẽ có thể giao vụ điều tra này cho một thám tử tư hay một
người của tòa án; ngài sẽ mau chóng biết rõ đầy đủ về sự việc để hiểu
rằng câu chuyện của tôi là đúng sự thật. Xin ngài hãy nghĩ tới sự vinh
quang mà ngài sẽ đạt được nếu tất cả các nhật báo đều loan tin rằng một
vụ án bất công không thể dung thứ được chắc chắn sẽ xảy ra nếu không có
lòng kiên trì và sự tinh tế của ngài. Đó sẽ là phần thưởng của ngài, vì
tôi nghèo túng và tôi không thể biếu tặng ngài một thứ gì. Nhưng nếu
ngài khoanh tay ngồi yên, thì ngài sẽ có thể không bao giờ thấy được một
giấc ngủ ngon trên giường! Sẽ chẳng có đêm nào trôi qua mà ngài không
thấy bị ám ảnh bởi ý nghĩ về một con người đang chết dần, chết mòn trong
nhà tù vì ngài đã không làm tròn nhiệm vụ mà ngài được giao phó! Nhưng
thưa ngài, ngài sẽ làm tròn nhiệm vụ đó, tôi tin chắc ở điều này. Ngài
chỉ cần làm một hay hai cuộc điều tra nhỏ, và ngài tự nhắc nhở mình rằng
kẻ duy nhất được hưởng lợi trong vụ án mạng là phu nhân Mannering, vì
vụ án mạng đã làm cho một người đàn bà khốn khổ trở thành một góa phụ
giàu sang. Tôi đã đặt vào tay ngài một đầu mối. Ngài chỉ cần đi theo nó;
ngài sẽ thấy nó dẫn ngài tới nơi nào.
Thưa ngài, xin ngài lưu ý
rõ ràng là tôi không kêu ca gì về các việc liên quan tới vụ trộm. Tôi
không ta thán gì về những điều mà tôi đáng phải chịu, và cho tới nay tôi
chưa phải nhận hình phạt nào nhiều hơn là hình phạt mà tôi đáng phải
chịu. Quả thật là đã có một vụ trộm và ba năm tù của tôi là để đền tội
đó. Trong phiên tòa, người ta chỉ ra rằng tôi đã tham dự vào vụ của
Merton Cross, và rằng tôi đã ngồi tù một năm vì chuyện đó, đó là lý do
tại sao lời khai của tôi đã được tiếp nhận một cách tệ hại như thế. Một
kẻ tái phạm thì bao giờ cũng bị tình nghi. Tôi nhìn nhận vụ ăn trộm.
Nhưng khi người ta nói với tôi về vụ án mạng đã khiến tôi bị kết án tù
chung thân (và bất cứ một vị quan tòa nào ngoài ngài James, đều rất có
thể đưa tôi lên đoạn đầu đài) thì tôi trả lời tôi không dính líu gì
trong vụ này và tôi vô tội. Bây giờ tôi sẽ trở lại cái đêm hôm 13 tháng
12 năm 1894, và tôi sẽ kể lại một cách chính xác với ngài về những gì đã
xảy ra. Nếu tôi nói sai sự thật một chút nào thì xin bàn tay của Thượng
Đế hãy giết chết tôi đi.
Vào khoảng giữa mùa hè, tôi đi tới
Bristol để tìm việc làm, nhưng tôi chợt nảy ra ý nghĩ là tôi sẽ có thể
xoay xở được ở Portsmouth, vì tôi là một thợ máy giỏi; vì vậy tôi đi
ngang qua miền nam nước Anh, bằng cách nhận các công việc làm trên đường
đi mỗi khi mà tôi kiếm được việc làm. Tôi cố gắng để khỏi có những sự
phiền muộn, vì tôi đã đền tội một năm trong nhà tù ở Exeter, và điều đó
cũng đủ với tôi rồi. Nhưng không có gì khó khăn bằng sự đi tìm việc làm
khi mà tên của mình đã bị một dấu chữ thập đen dính vào; suýt nữa thì
tôi đã bị chết đói. Sau cùng, sau khi trải qua mười ngày đi chặt củi và
đập đá vụn để kiếm một đồng lương chết đói, tôi đã tới gần Salisbury với
hai đồng bạc trong túi, và một lòng kiên nhẫn cũng tồi tệ như đôi giày
của tôi vậy. Trên đường đi, khoảng giữa Blanford và Salisbury, có một
quán rượu với tấm bảng hiệu “Thiện chí”. Tối hôm đó, tôi thuê một cái
giường ở quán rượu này. Tôi ngồi có một mình trong tửu quán, một ít lâu
trước giờ đóng cửa, khi chủ quán, một người tên là Allen, đi tới ngồi
cạnh tôi và bắt đầu nói với tôi về những chuyện tầm phào trong xứ. Đó là
một người thích nói và muốn có người nghe hắn nói; tôi là kẻ chẳng có
việc gì để làm, tôi ngồi lại đó để hút thuốc trước một bình rượu bia mà
hắn đem cho tôi. Tôi đã nghe hắn nói một cách lơ đãng, cho tới lúc hắn
bắt đầu nói ba hoa (hình như ma quỷ nhập vào hắn) về những nhà đại phú ở
lâu đài Mannering.
Tôi hỏi:
- Đó là cái nhà lớn ở mạn bên phải trước khi tới ngôi làng phải không? Cái nhà nằm giữa một hoa viên tư phải không?
- Đúng thế!
Tôi sẽ nhắc lại hết cuộc nói chuyện của chúng tôi để ngài thấy rằng
tôi nói đúng sự thật và tôi không giấu ngài một điều gì.
- Tòa nhà trắng dài với những cây cột. Ở cạnh con đường Blandford.
Vâng, tôi đã để ý tới nó khi đi qua; tôi đã tự nhủ một cách rất ngu
xuẩn rằng đó là một căn nhà rất dễ ăn trộm với một dãy dài các cửa sổ
lớn và những cửa lớn lồng kính. Tôi đã xua đuổi ý nghĩ này, và nay thì
anh chàng chủ quán lại nhắc tới cái nhà đó với câu chuyện những nhà phú
hào cư ngụ tại lâu đài Mannering. Tôi không nói gì cả, nhưng tôi lắng
tai nghe, và làm như một việc khẩn thiết, hắn ta quay trở lại câu
chuyện.
- Lúc còn trẻ, ông ta đã bần tiện rồi. Đó, anh nghĩ là
với tuổi tác ông ta vẫn không cải đổi gì cả. Tuy vậy, với tiền bạc của
ông ta, ông ta đã làm nhiều việc không đến nỗi tệ lắm.
Tôi hỏi:
- Ông ấy đã có thể làm được việc gì, với tiền bạc mà ông ấy không dám tiêu pha?
- Hà, ông ta đã có thể mua được người đàn bà đẹp nhất nước Anh! Đó
không phải là điều quá tệ. Cô ấy tưởng tượng là cô ấy sẽ có tiền bạc
tiêu xài; hôm nay thì cô ấy đã vỡ mộng rồi.
- Cô ấy là ai vậy?
Tôi đã đặt những câu hỏi, chỉ là để có chuyện mà nói thôi.
- Một cô gái cầu bơ, cầu bất trước khi được nhà quý tộc già cưới làm
vợ. Cô ta từ Luân Đôn tới. Một vài người nói chắc rằng cô ấy là diễn
viên, nhưng không ai chứng thực được điều này. Nhà quý tộc già vắng nhà
trong một năm. Khi ông ta trở về, ông ta dẫn theo một phụ nữ trẻ, người
mà từ đó không ra khỏi tòa lâu đài nữa. Stephens, người đầu bếp, đã có
lần kể lại với tôi rằng cô ấy là ánh sáng trong căn nhà khi cô ấy tới đó
nhưng với những cung cách bần tiện và kiêu căng của ông chồng, với sự
cô độc bao quanh ông ta (vì ông ta ghét tiếp khách) và với lời nói khắc
bạc của nhà quý tộc (vì ông ta có một cái lưỡi như nọc ong vò vẽ), tất
cả cuộc sống bây giờ hình như đã xa lánh cô ấy: cô ấy trở nên xanh xao,
trầm lặng, suốt ngày đi thơ thẩn trên những con đường quê, lòng nặng ưu
phiền. Cũng có nhiều người nói rằng cô ấy yêu một người đàn ông khác,
rằng cô ấy đã không cầm lòng được trước sự cám dỗ của tiền tài, và bây
giờ thì cô ấy trở nên tiều tụy buồn phiền vì cô ấy đã mất người yêu mà
cũng chả có giàu sang. Bất kể tiền bạc của chồng, cô ấy là người đàn bà
nghèo nhất trong giáo xứ.
Thưa ngài, chắc ngài hiểu rõ rằng
những chuyện cãi cọ giữa một nhà quý tộc và một bà phu nhân chẳng ăn
nhằm gì đến tôi cả. Việc cô ấy căm ghét tiếng nói của ông chồng hoặc ông
ta làm cô ấy bực bội vì những lời mai mỉa, chế giễu với hy vọng là làm
hủy hoại tâm hồn cô ấy, hoặc là ông ta nói với cô ấy như chưa từng bao
giờ nói như vậy với một người trong bọn tôi tớ của ông ta, có thể làm
tôi bận tâm ư? Gã chủ quán đã kể cho tôi nghe hàng lô chuyện ở đó, nhưng
chúng đã ra khỏi đầu óc tôi, vì chúng không liên can gì tới tôi. Ngược
lại, điều tôi muốn biết là tài sản của nhà quý tộc Mannering gồm những
thứ gì? Những chứng khoán, những cổ phần đều chỉ là những giấy tờ và là
nguồn gốc của tai họa nhiều hơn là lợi lộc cho kẻ nào chiếm đoạt chúng.
Trái lại, quý kim và các đồ nữ trang mới đáng với sự mạo hiểm. Như thể
hắn ta đã đoán được tất cả ý nghĩ của tôi, gã chủ quán nói với tôi về bộ
sưu tập lớn lao các huy chương bằng vàng của nhà quý tộc Mannering; hắn
nói với tôi rằng khắp trên thế giới không có bộ sưu tập nào như vậy;
người ta đã tính rằng nếu đem bỏ chúng vào một cái bao thì người lực
lưỡng nhất trong giáo xứ cũng không nâng nổi nó. Tới lúc đó thì vợ hắn
gọi hắn đi ngủ; chúng tôi chia tay nhau.
Thưa ngài, không phải
là tôi đang tự biện hộ cho tôi, nhưng tôi xin ngài suy xét lại các sự
việc, và xin hỏi ngài rằng có người nào lại bị cám dỗ một cách tàn bạo
hơn tôi nữa. Tôi nhìn nhận rằng rất ít người có thể chống cự lại được.
Đêm hôm đó tôi nằm duỗi dài trên giường, không chút hy vọng mà cũng
chẳng có công việc làm, với một đồng bạc cuối cùng trong túi. Tôi đã cố
sức làm người lương thiện: những người lương thiện đã quay lưng lại với
tôi; họ quở trách tôi đã là một tên ăn cắp và đồng thời họ đẩy tôi trở
lại thành một kẻ ăn cắp. Tôi đã dấn thân vào dòng nước; tôi không thể ra
thoát khỏi nữa. Rồi thì ở nơi đó tôi đã gặp cơ hội như vậy. Một tòa nhà
lớn với tất cả những cửa sổ của nó, những huy chương bằng vàng là thứ
dễ nấu chảy ra, y như là để một miếng bánh trước một kẻ đang đói mà nghĩ
rằng hắn sẽ không nhai ngấu nghiến miếng bánh đó. Tôi đã cưỡng lại được
một lúc, nhưng vô hiệu. Tôi ngồi dậy, và tôi thề rằng, ngay tối hôm
nay, hoặc là tôi sẽ giàu có và tôi sẽ có được các phương cách để chào
vĩnh biệt tội ác, hoặc là những cái còng lại một lần nữa khép lại trên
cổ tay tôi. Tôi mặc quần áo vào tôi đặt một đồng bạc trên bàn (vì gã chủ
quán đã đối xử tử tế với tôi và tôi không muốn lường gạt hắn). Tôi đi
ra bằng ngả cửa sổ và tôi thấy mình đứng trong vườn của quán rượu.
Một bức tường cao bao quanh khu vườn. Tôi phải vất vả lắm để leo lên
tường; nhưng khi đã sang tới bên kia tường thì mọi việc đã dễ dàng. Tôi
đã không gặp một người nào trên đường đi, và tấm lưới sắt của ngõ vào để
mở ngỏ. Không có gì động đậy ở nhà của người gác cổng. Trăng sáng vằng
vặc, xuyên qua một vòm cong các cây cối, tôi nhận rõ tòa nhà lớn màu
trắng. Tôi đi vào khoảng bốn trăm mét, và tôi đã tới trước cái cửa ở bên
cạnh lối đi; nấp mình trong bóng tối, tôi quan sát tòa nhà dài với
những cửa sổ lấp lánh dưới ánh sáng trắng như bạc. Tôi tự hỏi tôi sẽ tìm
thấy lối vào dễ nhất ở chỗ nào đây, cái cửa sổ ở chỗ góc cho tôi cảm
tưởng là nó ở nơi khuất nẻo nhất vì cây trường xuân rủ xuống từng chùm
rậm rạp khắp chung quanh. Tôi bước lại phía cái cửa số này trong khi lẩn
dưới các cây cối, rồi tôi bò đi dưới bóng của cái nhà. Một con chó sủa
lên, co kéo sợi dây xích của nó; tôi đợi cho nó nằm im; tôi lại tiến
bước một cách lén lút, và cuối cùng tôi đã đi tới dưới cái cửa sổ mà tôi
đã ghi nhớ.
Thật là đáng ngạc nhiên khi thấy ở miền quê mọi
người thường lơ là, vô tâm? Tưởng rằng ở xa thành thị, người ta không
bao giờ nghĩ tới những tên ăn trộm. Thật đúng là nhứ một con quỷ khốn
khổ khi bàn tay nó đặt lên cánh cửa, mở nó ra không một chút khó khăn.
Trong trường hợp của tôi thì không phải hoàn toàn đơn giản như vậy,
nhưng cái cửa sổ (một cái cửa sổ có cánh sập xuống) lại không cài chốt;
tôi mở nó bằng cách dùng một lưỡi dao lớn. Tôi nâng nó lên, tôi nhét con
dao vào giữa các tấm cánh cửa, tôi đẩy chúng về phía trước và tôi tụt
xuống căn phòng.
- Chào ngài! Ngài tới thật đúng lúc - một giọng nói cất lên.
Trong đời tôi, đã có lúc tôi giật mình đến nẩy người lên, nhưng chưa
bao giờ tôi bị giật nảy lên đến như vậy. Ở trong tầm các ngón tay của
tôi, ngay trước các cánh cửa sổ mở ngỏ, một người đàn bà đứng không nhúc
nhích, tay cầm một cây nến nhỏ, người cao lớn, mảnh mai, cô ta đứng
thẳng người, cô ta có một khuôn mặt trắng, đẹp trông như được tạc bằng
cẩm thạch; nhưng tóc và mắt thì đen sẫm như màn đêm. Cô ta mặc một áo
ngủ màu trắng dài tới gót chân. Với cái áo đó và bộ mặt cũng trắng như
vậy, cô ta nom giống như một con ma từ trên trời bước xuống đứng trước
mặt tôi. Hai đầu gối tôi lẩy bẩy đụng vào nhau, tôi phải vịn vào một
cánh cửa sổ để khỏi sụm xuống. Nếu tôi còn đủ sức lực thì tôi đã quay
đầu chạy trốn. Nhưng tôi chỉ có thể đứng nhìn cô ta, miệng há hốc ra.
Bất chợt cô ta đã kéo tôi về với thực tế. Cô ta nói với tôi:
- Đừng có sợ...!.
Đó là những lời kỳ lạ để một bà chủ nhà nói với một tên ăm trộm.
- Tôi đã nhìn thấy anh từ cửa sổ phòng của tôi trong lúc anh ẩn nấp
dưới các cây cối. Tôi đã đi xuống và đã nghe thấy anh ở phía bên kia cái
cửa sổ. Tôi sẽ tự ý mở cửa cho anh nếu anh đợi thêm một lúc, nhưng khi
tôi đến nơi thì anh đã tự một mình xoay xở được.
Tay tôi còn cầm
con dao dài có khớp hãm mà tôi đã dùng để mở cánh cửa sổ. Tôi đã không
cạo mặt, và trên hai má tôi có đầy bụi bặm trong tám ngày đi đường ít
người dám nhìn thẳng vào mặt tôi lúc chỉ có hai người, vào một giờ đêm
như thế này. Người đàn bà này thì trái lại, nếu cô ta đã có hẹn với tình
lang, thì chắc cô ta cũng không nhìn hắn bằng con mắt đáng yêu hơn. Cô
ta đặt một bàn tay lên cánh tay tôi, và cô ta kéo tôi vào bên trong căn
phòng.
- Thưa bà, thế này là nghĩa làm sao? Xin chớ đem những sự cám dỗ nhỏ nhen mà thử thách tôi.
Tôi đã cất giọng nói lớn, và khi tôi cố sức nói như vậy thì tôi có thể có vẻ rất hung dữ.
- Nếu bà muốn giở trò lừa gạt tôi, thì mặc kệ bà!
Tôi chìa con dao ra với cô ta.
Cô ta trả lời:
- Tôi không muốn lừa gạt anh. Ngược lại, tôi là bạn của anh và tôi muốn giúp đỡ anh.
- Thưa bà, xin thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi khó tin được việc này. Tại sao bà lại muốn giúp đỡ tôi?
- Vì những lý do riêng tư...
Bỗng nhiên, với những con mắt đen sáng rực trên khuôn mặt trắng, cô ta gần như gào lên với tôi:
- Vì rằng tôi hận ông ấy, tôi hận ông ấy, tôi hận ông ấy! Bây giờ thì anh hiểu rồi chứ?
Tôi nhớ lại những điều mà gã chủ quán đã nói với tôi và rồi tôi đã
hiểu. Tôi nhìn vào mặt cô ta: phải, tôi có thể tin ở cô ta? Cô ta muốn
trả thù người chồng. Cô ta muốn đánh lão ấy vào chỗ trọng yếu nhất: vào
cái túi tiền. Cô ta hận lão đến nỗi chịu hạ mình đặt tin tưởng vào một
người như tôi, nếu cô ta có thể đạt được mục đích. Trong đời tôi, tôi đã
từng thù hận nhiều người, nhưng tôi không nghĩ rằng tôi đã hiểu được
thế nào là hận thù, trước khi nhìn thấy bộ mặt của cô ta dưới ánh sáng
của cây nến.
- Bây giờ thì anh tin tôi rồi chứ? - cô ta hỏi tôi trong lúc lại một lần nữa đặt bàn tay dịu dàng lên cánh tay tôi.
- Vâng, thưa phu nhân.
- Thế ra anh biết tôi à?
- Tôi đoán ra cô là ai.
- Tôi biết rằng sự bất hạnh của tôi là câu chuyện được đồn đại trong
khắp xứ. Nhưng ông ấy có bận tâm về việc đó không? Ông ấy chỉ bận tâm
về một điều trên đời này, và điều đó là thứ mà anh sẽ lấy trộm của ông
ấy ngay đêm hôm nay. Anh có một cái túi không?
- Thưa phu nhân, không.
- Hãy đóng các cánh cửa sổ lại. Không ai có thể nhìn thấy ánh sáng.
Anh được an toàn triệt để. Bọn đầy tớ ngủ ở chái nhà bên kia. Tôi sẽ chỉ
cho anh thấy nơi để những đồ vật quý giá nhất. Anh sẽ không thể mang đi
tất cả: anh sẽ chọn lựa những thứ đẹp nhất.
Căn phòng mà tôi
lẻn vào thì dài và có cái trần thấp; những tấm thảm, những tấm lông thú
nằm rải rác trên một sàn ván đẹp, đánh xi bóng loáng. Có những tủ kính
nhỏ. Những bức tường được trang trí với các cây giáo, các thanh gươm,
các mái chèo và những đồ vật khác thường được bày trong các viện bảo
tàng. Cũng có cả những thứ y phục kỳ lạ đã được mang về từ các nước xa
lạ; vị phu nhân cúi mình xuống và nhặt một cái túi bằng da đen.
- Cái túi để nằm ngủ này sẽ được việc - cô ta nói - Hãy theo tôi, tôi sẽ chỉ cho anh rõ nơi cất các huy chương.
Thoạt giống như một giấc mộng: người đàn bà cao lớn mặc toàn màu
trắng này, vốn là nữ chủ nhân của tòa nhà, lại tiếp tay cho tôi ăn trộm
nhà cô ta?... Tôi đã định cười phá lên, nếu trên khuôn mặt nhợt nhạt của
cô ta tôi không phát hiện ra một điều gì làm giá lạnh nụ cười trên môi
tôi. Cô ta đi qua trước mặt tôi như một hồn ma, với cây nến trong tay,
và tôi đi theo cô ta với cái túi trong tay tận tới cái cửa lớn ở phía
cuối phòng bảo tàng này. Cái cửa được khóa kín, nhưng chìa khóa nằm
trong ổ khóa; cô ta mở cửa ra và chúng tôi đi vào.
Căn phòng kế
cận thì nhỏ bé, có treo những tấm màn vẽ. Trên một tấm là hình một cuộc
săn hươu, tôi nhớ rất rõ về tấm màn này, và dưới ánh sáng của cây nến
người ta có thể nghĩ rằng những con chó và những con ngựa từ trong tường
xông ra. Vật duy nhất khác trong căn phòng là một dãy tủ kính bằng gỗ
hồ đào, với những trang trí bằng đồng và những mặt trên bằng kính. Thoạt
vừa nhìn tôi đã nhận thấy rất nhiều huy chương bằng vàng, được xếp
thành từng hàng, trong số đó một vài cái lớn bằng những cái đĩa và có bề
dày tới ba hay bốn phân tây; chúng được đặt trên nhung đỏ; ánh vàng của
chúng lấp lóe trong bóng tối. Tôi thấy các ngón tay ngứa ngáy và tôi
luồn con dao vào ổ khóa của một trong các tủ kính để làm bật nó ra.
- Đợi một lát. - cô ta nói với tôi trong khi lại bắt đầu đặt bàn tay lên cánh tay tôi - Anh có thể tìm được thứ quý hơn.
Tôi đáp:
- Chỗ này là quá đủ cho tôi rồi. Và tôi vô vàn cảm ơn phu nhân về sự giúp đỡ tôi.
Nhưng cô ta vẫn khăng khăng:
- Tôi nói với anh là còn nhiều thứ quý giá hơn. Những vị vua chúa
bằng vàng sẽ có lợi cho anh nhiều hơn là những tấm huy chương này.
- Vâng, đúng thế! Các vị vua chúa bằng vàng, còn thứ gì quý hơn nữa.
- Được rồi. Ông ấy ngủ ngay bên trên đầu chúng ta. Ta chỉ cần lên
một cầu thang nhỏ. Bên dưới giường của ông ấy, ông ấy giấu một cái hòm
nhỏ đựng khá nhiều tiền đủ nhét đầy cái túi của anh.
- Nhưng tôi làm thế nào để lấy nó mà không làm ông ấy thức giấc?
- Có gì là quan trọng nếu ông ấy thức giấc?!...
Cô ấy nhìn chằm chằm vào mặt tôi khi nói câu này.
- Anh biết rõ cách ngăn cản không cho ông ấy kêu lên chứ?
- Dạ không, thưa bà! Không có chuyện đó. Tôi không làm được đâu
- Tùy ý anh đó! Lúc mới gặp tôi cứ nghĩ anh là một người cứng cỏi,
nhưng tôi thấy là tôi đã lầm. Nếu anh sợ hãi một ông già thì tất nhiên
là để mặc xác số vàng bên dưới giường ông ấy. Anh là vị quan tòa tốt hơn
tôi về các việc riêng của anh, nhưng tôi nghĩ rằng tốt nhất là anh nên
chọn một nghề khác.
- Tôi không muốn có một vụ sát nhân đè nặng lên lương tâm tôi.
- Anh có thể khống chế mà không làm tổn thương ông ấy. Tôi không bao
giờ nói tới việc giết người. Tiền để ở dưới giường. Nhưng nếu anh sợ
thì tốt nhất là anh đừng mạo hiểm làm việc gì cả.
Đó là cách
thức mà cô ta đã tác động tôi: một phần với sự mai mỉa của cô ta, một
phần với số vàng mà cô ta đem ra làm lóe mắt tôi. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ
nhượng bộ và tôi sẽ trở nên liều lĩnh tại nhà của nhà quý tộc già nua
nếu tôi không chú ý tới đôi mắt của cô ta: đôi mắt này đã phụ giúp cho
cuộc đấu tranh nội tâm của tôi bằng một sự biểu lộ quá gian xảo, quá
hung dữ khiến tôi hiểu ngay rằng cô ta cố gắng làm tôi trở thành công cụ
cho sự trả thù của cô ta, và cô ta không để cho tôi một sự chọn lựa nào
khác ngoài việc loại trừ ông chồng ra khỏi tình trạng có thể làm hại cô
ta hoặc để cho tôi bị ông ấy bắt được. Cô ta đã cảm thấy rõ là ý đồ đã
bị phát lộ, và tức thì ban tặng cho tôi một nụ cười thân mật; nhưng đã
quá muộn rồi; tôi đã có một sự cảnh giác của tôi.
Tôi bèn nói.
- Tôi không muốn lên lầu. Tôi đã có đủ mọi thứ tôi cần đây rồi.
Cô ta đã làm tôi choáng người vì sự khinh bỉ của cô ta.
- Được lắm. Anh có thể lấy những cái huy chương này đi. Tôi nghĩ
rằng anh nên bắt đầu từ phía bên kia. Chắc chắn là khi đã nấu chảy ra
rồi thì tất cả chúng đều cùng có một giá trị như nhau thôi, nhưng các
huy chương này là những thứ hiếm có hơn do đó là thứ quý báu hơn đối với
ông ấy, không cần phải bẻ các ổ khóa. Nhấn mạnh vào cái nút đồng này,
anh sẽ chuyển động một cái lò so bí mật. Kia kìa! Hãy lấy cái này trước:
đó là con người trong mắt lão ta...
Cô ấy mở một cái tủ kính;
tất cả những đồ vật đẹp đẽ được phơi bày ra trước mặt tôi. Tôi đã dặt
tay lên tấm huy chương mà cô ta vừa chỉ thì bỗng nhiên tôi thấy nét mặt
cô ta thay đổi, và cô ta giơ một ngón tay.
- Suỵt! Cái gì vậy?...
Trong sự im lặng của tòa nhà chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân lê đi rất nhẹ, ngay tức thì cô ta đóng tủ kính lại.
- Đó là chồng tôi! Anh đừng sợ! Mọi việc sẽ tốt đẹp thôi. Tôi sẽ dàn xếp mọi việc. Chỗ này? Mau lên, đằng sau tấm thảm!...
Cô ta đẩy tôi vào phía sau những tấm màn sơn, tôi và cái túi rỗng
không trong tay - rồi cô ta cầm lấy cây nến và nhanh nhẹn đi trở vào
phòng bảo tàng, nơi mà chúng tôi vừa ra khỏi. Từ chỗ tôi đứng, tôi có
thể nhìn thấy cô ta qua cái cửa mở ngỏ.
Cô ta nói lớn:
- Có phải mình không, Robert?
Ánh sáng của một cây nến lóe lên phía sau cái cửa của phòng bảo
tàng; tiếng bước chân tới gần. Rồi tôi thấy hiện ra trên bậc cửa một bộ
mặt lớn, nặng nề, đầy những vết nhăn và những nếp da bùng nhùng mỡ, với
một cái mũi cong khoằm có mang kính gọng vàng. Ông ta rất cao lớn to.
Với cái áo ngủ, ông ta đứng che kín cả cái cửa - ông ta có mái tóc bạc,
xoắn lại thành từng cuộn, nhưng ông ta không có râu. Miệng ông ta thì
nhỏ, mỏng, chúm lại, bị mờ nhạt đi dưới sự uy hiếp của cái mũi ngạo
nghễ. Ông ta đứng yên bất động, quan sát vợ với một cái nhìn xa lạ, hiểm
ác mới thoạt nhìn tôi đã hiểu ngay là ông ta biểu lộ với vợ những tình
cảm mà cô ta đã dành cho chồng.
Ông ta hỏi vợ:
- Thế này
là nghĩa làm sao? Một sự nổi hứng mới à? Tại sao lại có cuộc đi dạo
chơi ban đêm này trong nhà? Làm sao mà cô lại không đi ngủ?
- Tôi không thể ngủ được...
Cô ta nói một giọng chán chường, thê thảm. Nếu ngày xưa cô ta đã lên
sân khấu, thì hắn cô ta đã không quên nghề nghiệp của mình.
- Tôi có cần gợi ý cho cô là một lương tâm trong sáng sẽ giúp một cách rất hiệu lực cho giấc ngủ không?
Ông ta lại lên tiếng với cũng một giọng chế nhạo như vậy
Cô ta trả lời:
- Tôi không tin điều đó, bởi vì ông vẫn có những giấc ngủ rất ngon mà.
- Trong suốt cuộc đời tôi, tôi chỉ xấu hổ về một chuyện thôi... -
Tóc ông ta dựng đứng lên lởm chởm vì tức giận; ông ta nom giống như một
con ác điểu. - Cô biết hơn ai hết là tôi nói việc gì. Và sự trừng phạt
đã theo sau lỗi lầm.
- Đối với tôi, cũng đúng như thế: chớ quên điều này.
- Cô còn phàn nàn cái gì? Chính tôi đã tự hạ thấp mình xuống; còn cô, cô đã được cao sang.
- Cao sang?
- Đúng vậy! Tôi nghĩ rằng cô sẽ không chối cãi là cô đã được mãn
nguyện khi tới đây, tới lâu đài Mannering. Tôi đã phạm sai lầm lớn khi
đem cô ta ra khỏi môi trường thật sự của cô.
- Nếu đúng là ông nghĩ như vậy, tại sao chúng ta không chia tay nhau?
- Bởi vì một sự bất hạnh riêng tư còn tốt hơn là một sự nhục nhã
trước mọi người. Bởi vì ngấm ngầm đau khổ về một lỗi lầm còn dễ hơn là
thú nhận nó. Và cũng bởi vì tôi thích có cô ở trước mắt và biết rằng cô
không thể quay trở lại với hắn.
- Đồ vô lại! Đồ hèn nhát?
- Đúng vậy, Milady. Tôi biết tham vọng thầm kín của cô, nhưng khi tôi
còn sống, nó sẽ không thực hiện được đâu và rất có thể là tôi sẽ có
những cách xếp đặt để sau khi chết rồi tôi vẫn còn canh chừng để khi cô
trở về sống với hắn mà không có một đồng xu dính túi. Cô và anh chàng
Edward yêu quí của cô, không bao giờ các người được toại nguyện phung
phí tiền bạc của tôi, phải nói cho cô biết ý định này, Milady ạ. Tại sao
các ô cửa và cửa số lại mở ngỏ thế này?
- Tôi thấy căn phòng có mùi hôi.
- Đó không phải là sự khôn ngoan. Biết đâu lại không có một tên du
đãng đi dạo quanh đây? Cô có biết rằng bộ sưu tập huy chương của tôi có
giá trị hơn bất cứ bộ sưu tập nào trên thế giới không? Cô cũng để cửa
lớn mở ngỏ nữa. Ai sẽ có thể ngăn cản được một tên ăn cắp lấy trộm đồ
của tôi?
- Có tôi ở đây mà.
- Tôi biết điều đó. Tôi đã nghe thấy cô đi trong phòng dể huy chương; đó là lý do tại sao tôi đi xuống. Cô đã làm gì ở đó?
- Tôi xem các tấm huy chương. Tôi còn có thể làm gì khác được?
- Sự hiếu kỳ này là mới mẻ đấy!
Ông ta ném cho vợ một cái nhìn nghi ngờ và ông ta đi vào phòng nhỏ chứa các huy chương. Cô ta đi theo chồng.
Ngay vào lúc đó tôi nhìn thấy một vật làm tôi phát run lên. Tôi đã
đế con dao có khớp hãm lưỡi mở sẵn trên mặt tủ kính. Nó nằm phơi ra đó,
mắt thường cũng nhìn thấy được. Cô ta đã nhìn thấy con dao trước ông ta,
và với tất cả sự sắc bén của một người đàn bà, cô ấy nâng cao cây nến
lên để ngọn lửa nến len vào khoảng giữa con dao và cặp mắt của nhà quí
tộc Mannering. Rồi tay trái cô ta cầm lấy con dao và áp nó sát vào áo
ngủ của mình không để ông ta nhìn thấy. Ông ta kiểm soát các tủ kính,
lần lượt từng cái một; có một lúc nào đó tôi đã có thể đặt bàn tay tôi
lên cái mũi dài của ông ta. Như không có gì chứng tỏ là có người đã đụng
chạm tới các tấm huy chương, ông ta đi ra, kéo lê hai chân tới gian
phòng lớn..
Và bây giờ tôi phải nói tới một điều mà tôi nghe
thấy chớ không phải là nhìn thấy, nhưng tôi xin thề với ngài, cũng đúng
thật như một ngày nào mà tôi trình diện trước đấng tối cao, là tôi sẽ
nói sự thật với ngài.
Khi họ đi vào phòng bảo tàng, tôi trông
thấy ông ta đặt cây nến trên góc bàn, rồi ông ta ngồi xuống, nhưng vừa
đúng ngoài tầm nhìn của tôi. Cô ta thì đứng sau lưng ông ta, theo như
tôi có thể biết vì cây nến chiếu ra bóng của nhà quí tộc già trên sàn
nhà trước mặt ông ta. Lúc đó ông ta lại nói đến gã đàn ông mà ông ta gọi
tên là Edward, ông ta nói nhỏ, và tôi không hiểu tất cả nhưng theo
những điều tôi nghe được thì giống như cô ta bị những ngọn roi quật vào
mình... Thoạt đầu cô ta trả lời bằng những từ ngữ rất bén nhọn, rồi thì
cô ta im tiếng; ông ta cứ tiếp tục làm tổn thương vợ, chửi mắng, hành hạ
vợ bằng giọng nói lạnh lùng và chế nhạo; tôi tự hỏi tại sao cô ta lại
có thể giữ được im lặng khi nghe ông ta nói thế. Bỗng nhiên tôi nghe
thấy ông ta nói với một giọng sắc bén:
- Đừng đứng đằng sau tôi nữa! Buông cổ áo tôi ra! Cái gì thế cô muốn đánh tôi à?
Đúng là tôi đã nghe thấy một tiếng động giống như một nhát đánh một
thứ tiếng đục và nhẹ, rồi tôi nghe thấy ông ta kêu lớn: “Lạy chúa tôi,
nhưng đây là máu mà!” ông ta cựa quậy hai bàn chân như muốn đứng lên.
Lúc đó tôi lại nghe thấy một nhát đánh nữa, và ông ta thét lên: “ôi, đồ
quỉ cái”. Và sau một tiếng đổ vật trên sàn nhà và tiếng một chất lỏng
chảy, sự im lặng lại bao trùm.
Tôi vội vã đi ra khỏi chỗ ẩn nấp
và tôi chạy vào gian phòng lớn, tôi run rẩy cả chân tay; tôi bị kinh
hoảng. Nhà quí tộc già đã tụt xuống khỏi cái ghế và trên lưng ông ta cái
áo ngủ, làm thành một cái bướu khủng khiếp. Cái đầu ông ta vẫn còn đeo
kính, lăn sang một bên; cái miệng nhỏ bé của ông ta há hốc ra như một
con cá chết. Tôi không trông thấy máu chảy ra từ nơi nào, nhưng tôi nghe
thấy nó rơi lộp độp trên sàn nhà. Còn cô ta? Kia kìa, môi cô ta mím
chặt, đôi mắt long lanh, và lúc này thì cặp má hồng ửng lên. Cô ta chỉ
thiếu một chút sắc hồng nhạt này để trở thành người đàn bà xinh dẹp nhất
mà tôi đã
từng thấy.
Tôi ấp úng nói:
- Cô đã giết ông ta?
- Phải, - cô ta trả lời tôi với sự điềm tĩnh cố hữu, - Bây giờ tôi đã giết ông ta.
Tôi hỏi:
- Cô sẽ làm thế nào? Cũng chắc chắn như hai với hai là bốn, cô sẽ bị bắt giữ về tội sát nhân.
- Anh khỏi phải lo sợ cho tôi. Đời sống chẳng có gì làm tôi quan tâm
cả; sự sống không quan trọng đối với tôi. Hãy giúp tôi một tay để đặt
lại ông ta lên ghế, nhìn như thế này khủng khiếp lắm!
Tôi phụ giúp cô ta. Chỉ chạm vào ông ta mà người tôi đã lạnh giá như băng. Một ít máu chảy lên bàn tay tôi. Tôi buồn nôn.
- Bây giờ thì hoặc là anh hay kẻ nào khác lấy những tấm huy chương này - cô ấy dõng dạc nói - Hãy lấy đi và đi khỏi!
- Tôi không muốn lấy chúng. Tôi muốn đi khỏi, có thế thôi. Chưa bao giờ tôi bị dính vào một vụ như thế này.
- Thật là ngu ngốc. Anh tới đây vì những tấm huy chương; chúng nằm
kia, thuộc quyền sử dụng của anh. Tại sao anh không lấy? Không có ai
ngăn cản việc anh lấy chúng đi.
Trong tay tôi còn cầm cái túi
trống rỗng. Cô ấy mở tủ kính, cả hai chúng tôi bỏ chừng một trăm tấm huy
chương vào cái túi. Chúng đều nằm trong cùng một tủ kính; tôi không
muốn đợi lâu hơn nữa. Tôi đi về phía cửa sổ vì không khí trong tòa nhà
làm tôi ngộ độc sau những gì tôi đã trông thấy và nghe thấy. Tôi quay
đầu lại. Tôi thấy cô ta vẫn đứng yên, mảnh mai, cao lớn, đài các, với
cây nến trong tay, giống hệt như lúc tôi nhìn thấy cô ta lần đầu tiên Cô
ta vẫy tay nói lời tạm biệt với tôi. Tôi đáp lại cô ta cũng bằng dấu
hiệu đó. Tôi nhảy qua cửa sổ vào lối đi lát sỏi.
Tôi cảm ơn
Thượng đế là tôi có thể đặt tay lên trái tim mà thề rằng tôi đã không
bao giờ phạm tội ác; nhưng có lẽ tôi sẽ không có thể thề việc này, nếu
tôi đọc được ý nghĩ trong đầu người đàn bà này. Nếu tôi đoán được những
gì ẩn nấp sau nụ cười cuối cùng của cô ta, thì lúc đó sẽ có hai xác chết
trong gian phòng thay vì chỉ có một xác thôi. Nhưng tôi chỉ nghĩ tới
một việc: Tẩu thoát để khỏi bị bắt giữ. Tôi hoàn toàn không nghĩ tới
chuyện cô ta đang tròng dây thừng vào cổ tôi. Tôi chưa đi được năm bước ở
bên ngoài bằng cách men theo tòa nhà và ẩn mình trong bóng tối thì tôi
đã nghe thấy một tiếng la đủ sức làm thức giấc tất cả giáo xứ; rồi một
tiếng thứ hai, và còn một tiếng thứ ba nữa.
- Có án mạng! - cô ta kêu lớn - có án mạng! Cấp cứu!
Tiếng cô ta vang lên trong sự yên tĩnh của ban đêm, và tiếng vọng
lan ra khắp cả mọi nơi. Tiếng kêu rùng rợn đó, nó đã xuyên thủng đầu.
tôi Trong một khoảng khắc, những ánh sáng đã hiện ra, đã chuyển động, và
các cửa sổ được mở tung: không phải chỉ trong tòa nhà đằng sau tôi mà
cả trong nhà người gác cửa và các chuồng ngựa trên đường đi của tôi. Như
một con thỏ hoảng hốt, tôi lao mình trong lối đi và tôi chạy với hết
tốc độ của đôi chân, nhưng tấm lưới sắt đã đóng lại trước khi tôi có thể
tới chỗ nó. Tôi giấu cái túi đựng huy chương dưới một đống củi và tôi
toan chạy trốn qua công viên, nhưng một người nào đó đã trông thấy tôi,
và chả mấy lúc dã có năm, sáu người với những con chó đuổi theo tôi. Tôi
náu mình sau các bụi cây; nhưng những con chó chồm lên người tôi và tôi
đã rất mừng khi mọi người chạy tới, nếu không tôi đã bị chúng nuốt
sống.
Họ túm lấy tôi và dẫn tôi trở lại căn phòng mà tôi đã bỏ chạy khỏi đó.
Người lớn tuổi nhất hỏi:
- Có phải người này không, thưa phu nhân?
Từ trước tôi đã biết người này là anh đầu bếp trưởng.
Cô ta cúi mình bên trên xác chết, cô ta chùi mắt bằng một chiếc khăn
mùi xoa, rồi quay lại phía tôi, bộ mặt của một mụ đàn bà hung ác, ôi,
một nữ diễn viên tài giỏi làm sao!
- Phải, đúng là nó! - Cô ta kêu lên - Ôi, thằng ăn cướp! Thằng tàn ác! Đối xử như vậy với một ông già!
Trong đám người đứng quanh đó, có một người có vẻ là nhân viên cảnh
sát trong làng. Ông ta đặt một bàn tay lên vai tôi, ông ta hỏi tôi:
- Anh có gì để trả lời việc này?
- Chính cô ấy đã giết ông ta!- Tôi gào to lên trong khi chỉ tay vào cô ta.
Cô ta vẫn điềm nhiên, tiếp tục nhìn tôi với một cái nhìn tỉnh táo.
Người cảnh sát nói:
- Nào, anh còn, lời bào chữa khác không?
Một tên trong bọn đầy tớ đã đấm tôi một cú đấm rất mạnh.
- Tôi đã nói với ông là tôi nhìn thấy cô ấy giết người! Cô ấy đã đâm
ông ta hai nhất bằng một con dao. Thoạt đầu cô ấy đã giúp tôi lấy trộm
đồ của ông ta; rồi cô ấy giết ông ta.
Tên đầy tớ muốn đánh tôi một lần nữa, nhưng cô ta đã giữ tay hắn lại. Cô ta nói thì thầm:
- Đừng làm tổn thương hắn. Tôi tin rằng pháp luật sẽ đảm nhiệm việc trừng phạt hắn.
- Thưa phu nhân, tôi sẽ lo việc đó! - người cảnh sát trả lời - Phu nhân đã chứng kiến rõ
ràng vụ án phải không ạ?
- Phải, phải! Tôi đã chính mắt nhìn thấy vụ án. Thật là khủng khiếp.
Chúng tôi đã nghe thấy tiếng động và chúng tôi cùng đi xuống. ông chồng
xấu số của tôi đi trước. Người này đã mở dược một tủ kính, và hắn ta
đang nhét đầy cái túi da đen hắn cầm trong tay. Hắn định chạy trốn,
nhưng ông chồng tôi đã bắt hắn lại; hai người đánh nhau, và hắn đã đâm
ông ấy hai nhát dao găm. Hãy nhìn xem: hắn còn máu trên hai bàn tay. Nếu
tôi không lầm thì con dao vẫn còn nằm trong lưng chồng tôi.
- Các ông trông kìa; cô ấy có những bàn tay đẫm máu. - tôi dã kêu lên.
- Cô ấy đã đỡ cái đầu của ông lớn, đồ dối trá đê tiện - gã đầu bếp cãi lại.
- Và đây là cái túi mà phu nhân nói tới lúc nãy - người cảnh sát
nói, ông ta vừa được một tên chăn ngựa đem tới cho cái túi mà tôi đã
quẳng đi trong lúc chạy trốn. Và những tấm huy chương nằm ở bên trong.
Như thế là quá đủ cho tôi rồi - tối hôm nay chúng ta hãy giừ hắn ở đây
và ngày mai sẽ giải hắn tới Salisbary.
Người đàn bà nói:
- Đồ ma quỉ xấu xa! Về phần tôi, tôi tha thứ cho hắn về sự thương tổn
hắn đã gây ra cho tôi. Ai biết được sự cám dỗ nào đã đưa đẩy hắn tới tội
ác? Lương tâm của hắn và luật pháp sẽ trừng phát hắn một cách thích
đáng để tôi khỏi phải nói ra những lời nguyền rủa hắn.
Tôi đã
không thể trả lời được câu nào, thưa ngài, tôi xin đoan chắc với ngài là
tôi không thể trả lời được câu nào. Tôi bị bối rối vì sự trắng trợn của
người đàn bà này. Vì sự im lặng của tôi có vẻ như đã xác nhận tất cả
những điều cô ta nói, tôi đã bị người cảnh sát kéo vào trong căn hầm,
tại đó tôi bị nhốt qua đêm.
Đấy thưa ngài, tôi đã nói với ngài
tất cả chuyện về các biến cố dẫn tới vụ giết chết nhà quí tộc Mannering
bởi vợ ông ta trong đêm 14 tháng 9 năm 1894. Có lẽ ngài sẽ bác bỏ sự
trình bày các biến cố của tôi, như người cảnh sát ở lâu đài Mannering,
như vị quan tòa ở tòa án địa phương hoặc có lẽ ngài sẽ tìm ra một tia
chân lý, điều sẽ làm ngài bận tâm, và ngài sẽ mãi mãi giữ vững thanh
danh một người không lùi bước trước bất kỳ một trở ngại nào để làm sáng
tỏ chân lý và sự công bằng. Thưa ngài, tôi chỉ có thể khẩn cầu với ngài,
nếu ngài rửa sạch được tên tuổi tôi khỏi sự cáo buộc gian dối này, tôi
sẽ đội ơn ngài cho tới hết đời. Nhưng nếu ngài bỏ rơi tôi.
Kết Thúc (END)
Truyện Ma (Kinh Dị) » Vụ Án B.24
1 Truyện Ma (Kinh Dị) » Vụ Án B.24 Wed Sep 14, 2011 3:21 pm
§▐▬▌jn™
Smod
Similar topics
Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum