Tại cuộc họp báo đầu tiên kể từ khi nhận nhiệm vụ Đại sứ Mỹ tại Việt
Nam, diễn ra tại Hà Nội ngày 9.9, ông David B.Shear cho biết: Tăng cường
quan hệ đối tác chiến lược và thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại với
VN sẽ tiếp tục là những ưu tiên của ông.
Đại sứ David B.Shear cho biết, trong chuyến thăm VN hồi tháng
10.2010, Ngoại trưởng Mỹ H.Clinton đã đề xuất thiết lập quan hệ đối tác
chiến lược Mỹ - Việt Nam. “Công việc của tôi là giúp định nghĩa mối quan
hệ đối tác chiến lược đó là gì và hai nước muốn gì trong mối quan hệ
này. Cũng như hai nước sẽ đi ở nhịp độ nào để xây dựng quan hệ đó”, Đại
sứ Shear nói.
Bên cạnh đó, các lĩnh vực khác như quốc phòng, giáo dục cũng được Đại
sứ David B.Shear cam kết thúc đẩy. Ngoài việc tạo điều kiện để ngày
càng có nhiều sinh viên VN tiếp cận với nền giáo dục Mỹ, ông Shear cũng
sẽ làm việc với các đối tác chủ nhà về việc tăng cường năng lực cho hệ
thống giáo dục của Việt Nam. Tuy nhiên Đại sứ Shear cũng thừa nhận giữa
hai nước vẫn còn một số bất đồng trong lĩnh vực nhân quyền.
Đại sứ Shear đã trả lời một số câu hỏi của báo chí trong và ngoài nước.
Ngài từng là chuyên gia về Trung Quốc (TQ) và hiện là Đại sứ Mỹ
tại VN, một nước có mối quan hệ đặc biệt với TQ, trong khi Mỹ và TQ đều
là các đối tác quan trọng hàng đầu của VN. Ngài có suy nghĩ gì về điều
này?
Không có gì quan trọng hơn hòa bình, ổn định và sự thịnh vượng trong
khu vực cũng như mối quan hệ tốt có được giữa Trung Quốc, Mỹ và Việt
Nam. Hy vọng trong quá trình thực hiện chính sách ngoại giao của mình,
chúng tôi sẽ đem đến một khu vực mà tại đó tất cả mọi người đều có thể
hưởng sự hòa bình và ổn định.
Quan điểm của ông về một sự kiện gần đây, việc một tàu TQ gửi cảnh báo đến một tàu của Ấn Độ khi tàu này vừa có chuyến thăm VN?
Chúng tôi ủng hộ những nỗ lực cũng như quá trình thực hiện chính sách
ngoại giao hợp tác của tất cả những nước tuyên bố chủ quyền ở biển Đông
để giải quyết các tranh chấp mà không có sự cưỡng ép bắt buộc. Chúng
tôi phản đối việc sử dụng hoặc de đọa sử dụng vũ lực của bất cứ nước nào
tuyên bố chủ quyền để thúc đẩy tuyên bố chủ quyền của mình. Mỹ chia sẻ
một số lợi ích quốc gia với cộng đồng quốc tế ở khu vực biển Đông, ủng
hộ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) của ASEAN và TQ,
khuyến khích các bên đạt được bộ Quy tắc ứng xử (COC) đầy đủ. Mỹ không
đứng về bên nào trong những tuyên bố chủ quyền biển Đông, song chúng tôi
kêu gọi các bên hãy tuân thủ các luật pháp quốc tế cũng như Luật Biển
quốc tế.
Làm tất cả để xây dựng lòng tin
Về quan hệ đối tác chiến lược, ông thấy trước những thách thức gì và ông trông đợi tiến trình sẽ diễn ra như thế nào?
Tôi nghĩ rằng điều đầu tiên muốn làm với các đối tác Việt Nam là xây
dựng lòng tin. Nền tảng cho một mối quan hệ tốt, có hiệu quả và tính
cộng tác là có lòng tin. Và tôi sẽ làm tất cả để xây dựng lòng tin với
đối tác Việt Nam.
Liệu có triển vọng gì về việc Mỹ sẽ bán vũ khí sát thương cho VN?
Mỹ không có chính sách bán vũ khí sát thương cho VN. Chúng tôi chỉ có
thể bán những vũ khí không sát thương, mang tính chất phòng thủ cho VN
trên cơ sở xét từng trường hợp một. Quan hệ quốc phòng song phương giữa
hai nước đã có những cải thiện đáng kể trong vài năm trở lại đây. Khi Bộ
trưởng Quốc phòng R.Gates thăm VN, ông đã từng nhất trí với phía VN
rằng Mỹ và VN sẽ làm việc trong các lĩnh vực liên quan đến quốc phòng
như sau: an ninh hàng hải, cứu trợ nhân đạo, tìm kiếm cứu nạn và một số
hoạt động trao đổi khác. Hai nước vẫn đang ở trong giai đoạn đầu của
quan hệ quốc phòng và sẽ còn một chặng đường dài phải đi cho đến khi
chúng tôi có thể bán những vũ khí sát thương cho VN. Tất nhiên, lúc đó
cũng có thể kèm theo một số điều kiện khác như về vấn đề nhân quyền…
Ngoại trưởng H.Clinton đã từng đưa sáng kiến về vấn đề sông Mê
Kông. Vấn đề môi trường được đặt ra như thế nào trong nhiệm kỳ của ông?
Mỹ có lợi ích gì đối với khu vực sông Mê Kông?
Vấn đề môi trường, biến đổi khí hậu là một trong những trọng tâm
trong quan hệ của Mỹ với VN. Chúng tôi muốn giải quyết các vấn đề này
thông qua các sáng kiến Hạ vùng sông Mê Kông. Việc xây dựng các đập trên
dòng chính Mê Kông sẽ đưa lại những hậu quả rất lớn với các quốc gia ở
hạ nguồn như VN. Mỹ muốn nói rõ với các đối tác khi họ lập kế hoạch xây
dựng các con đập, cần cân nhắc về hậu quả có thể gây ra cho các nước ở
hạ nguồn.
Biến đổi khí hậu và nước biển dâng sẽ có những tác động lớn đối với
đồng bằng sông Mê Kông. Chúng tôi rất ý thức vấn đề này và đã có những
dự án làm việc với phía VN, ví dụ như dự án với Đại học Cần Thơ về giám
sát khu vực sông Mê Kông. Trên cơ sở dự án này, chúng tôi sẽ đánh giá
ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và tính bền vững của khu vực.
Quan hệ thương mại đúng hướng
Mục tiêu trong phát triển quan hệ thương mại Mỹ - VN, ông muốn thay đổi chính sách gì của VN trong lĩnh vực này?
Khi hai nước ký Hiệp định thương mại song phương năm 2001, thương mại
hai chiều mới chỉ đạt 1,5 tỉ USD, sau 10 năm thì con số đã là 18,6 tỉ
USD. Năm 2010 mức tăng trưởng là 20% so với năm trước đó. Cá nhân tôi sẽ
không đặt ra cam kết cụ thể về gia tăng xuất khẩu của Mỹ sang VN, nhưng
chúng ta có thể thấy xuất khẩu của Mỹ vào VN đang tăng đều đặn và mục
tiêu của tôi là duy trì đà tăng này. Trong sáng kiến của Tổng thống
Obama về xuất khẩu có đặt mục tiêu tăng gấp đôi xuất khẩu của Mỹ trong 5
năm tới. Chúng tôi đang đi đúng hướng để đạt được mục tiêu đó trong
quan hệ thương mại với VN.
Trong các thảo luận với Việt Nam, chúng tôi luôn khuyến khích Chính
phủ VN làm tất cả những gì có thể để cải thiện giúp tăng xuất khẩu của
Mỹ sang VN, đồng thời cải thiện môi trường kinh doanh đầu tư của các
doanh nghiệp Mỹ tại VN. Chúng tôi sẽ làm việc rất chi tiết về vấn đề này
trong khuôn khổ đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Vừa qua có một số nghị sĩ Mỹ muốn đưa VN trở lại danh sách quốc
gia cần quan tâm về vấn đề tôn giáo. Xin cho biết quan điểm của Bộ Ngoại
giao Mỹ về vấn đề này?
Nếu tôi không nhầm thì VN từng nằm trong danh sách các quốc gia đáng
quan ngại về vấn đề tôn giáo hồi 2004. Những quy định pháp lý của Mỹ có
những định nghĩa chi tiết về việc một nước như thế nào sẽ được đưa vào
danh sách này. Khi VN đáp ứng được các điều kiện cụ thể, chúng tôi đã
đưa VN ra khỏi danh sách này và cho đến nay chưa có bất cứ quyết định
nào đưa lại VN vào danh sách này cả.
Chúng tôi theo dõi lĩnh vực tôn giáo trong tổng thể mối quan hệ với
VN rất chặt chẽ và chúng tôi cũng làm việc tích cực với các đối tác VN
về vấn đề này. VN đã có những cải thiện tích cực về vấn đề này và chúng
tôi mong muốn thấy có thêm những tiến triển…
Nam, diễn ra tại Hà Nội ngày 9.9, ông David B.Shear cho biết: Tăng cường
quan hệ đối tác chiến lược và thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại với
VN sẽ tiếp tục là những ưu tiên của ông.
Đại sứ David B.Shear cho biết, trong chuyến thăm VN hồi tháng
10.2010, Ngoại trưởng Mỹ H.Clinton đã đề xuất thiết lập quan hệ đối tác
chiến lược Mỹ - Việt Nam. “Công việc của tôi là giúp định nghĩa mối quan
hệ đối tác chiến lược đó là gì và hai nước muốn gì trong mối quan hệ
này. Cũng như hai nước sẽ đi ở nhịp độ nào để xây dựng quan hệ đó”, Đại
sứ Shear nói.
Tàu hải quân Mỹ thăm Đà Nẵng năm 2009 |
sứ David B.Shear cam kết thúc đẩy. Ngoài việc tạo điều kiện để ngày
càng có nhiều sinh viên VN tiếp cận với nền giáo dục Mỹ, ông Shear cũng
sẽ làm việc với các đối tác chủ nhà về việc tăng cường năng lực cho hệ
thống giáo dục của Việt Nam. Tuy nhiên Đại sứ Shear cũng thừa nhận giữa
hai nước vẫn còn một số bất đồng trong lĩnh vực nhân quyền.
<table align="right"> <tr> <td> Ảnh: N.T </td> </tr> </table> Công việc của tôi là giúp định nghĩa mối quan hệ đối tác chiến lược đó là gì và hai nước muốn gì trong mối quan hệ này. Cũng như hai nước sẽ đi ở nhịp độ nào để xây dựng quan hệ đó Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, David B.Shear |
Ngài từng là chuyên gia về Trung Quốc (TQ) và hiện là Đại sứ Mỹ
tại VN, một nước có mối quan hệ đặc biệt với TQ, trong khi Mỹ và TQ đều
là các đối tác quan trọng hàng đầu của VN. Ngài có suy nghĩ gì về điều
này?
Không có gì quan trọng hơn hòa bình, ổn định và sự thịnh vượng trong
khu vực cũng như mối quan hệ tốt có được giữa Trung Quốc, Mỹ và Việt
Nam. Hy vọng trong quá trình thực hiện chính sách ngoại giao của mình,
chúng tôi sẽ đem đến một khu vực mà tại đó tất cả mọi người đều có thể
hưởng sự hòa bình và ổn định.
Quan điểm của ông về một sự kiện gần đây, việc một tàu TQ gửi cảnh báo đến một tàu của Ấn Độ khi tàu này vừa có chuyến thăm VN?
Chúng tôi ủng hộ những nỗ lực cũng như quá trình thực hiện chính sách
ngoại giao hợp tác của tất cả những nước tuyên bố chủ quyền ở biển Đông
để giải quyết các tranh chấp mà không có sự cưỡng ép bắt buộc. Chúng
tôi phản đối việc sử dụng hoặc de đọa sử dụng vũ lực của bất cứ nước nào
tuyên bố chủ quyền để thúc đẩy tuyên bố chủ quyền của mình. Mỹ chia sẻ
một số lợi ích quốc gia với cộng đồng quốc tế ở khu vực biển Đông, ủng
hộ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) của ASEAN và TQ,
khuyến khích các bên đạt được bộ Quy tắc ứng xử (COC) đầy đủ. Mỹ không
đứng về bên nào trong những tuyên bố chủ quyền biển Đông, song chúng tôi
kêu gọi các bên hãy tuân thủ các luật pháp quốc tế cũng như Luật Biển
quốc tế.
Làm tất cả để xây dựng lòng tin
Về quan hệ đối tác chiến lược, ông thấy trước những thách thức gì và ông trông đợi tiến trình sẽ diễn ra như thế nào?
Tôi nghĩ rằng điều đầu tiên muốn làm với các đối tác Việt Nam là xây
dựng lòng tin. Nền tảng cho một mối quan hệ tốt, có hiệu quả và tính
cộng tác là có lòng tin. Và tôi sẽ làm tất cả để xây dựng lòng tin với
đối tác Việt Nam.
Liệu có triển vọng gì về việc Mỹ sẽ bán vũ khí sát thương cho VN?
Mỹ không có chính sách bán vũ khí sát thương cho VN. Chúng tôi chỉ có
thể bán những vũ khí không sát thương, mang tính chất phòng thủ cho VN
trên cơ sở xét từng trường hợp một. Quan hệ quốc phòng song phương giữa
hai nước đã có những cải thiện đáng kể trong vài năm trở lại đây. Khi Bộ
trưởng Quốc phòng R.Gates thăm VN, ông đã từng nhất trí với phía VN
rằng Mỹ và VN sẽ làm việc trong các lĩnh vực liên quan đến quốc phòng
như sau: an ninh hàng hải, cứu trợ nhân đạo, tìm kiếm cứu nạn và một số
hoạt động trao đổi khác. Hai nước vẫn đang ở trong giai đoạn đầu của
quan hệ quốc phòng và sẽ còn một chặng đường dài phải đi cho đến khi
chúng tôi có thể bán những vũ khí sát thương cho VN. Tất nhiên, lúc đó
cũng có thể kèm theo một số điều kiện khác như về vấn đề nhân quyền…
Ngoại trưởng H.Clinton đã từng đưa sáng kiến về vấn đề sông Mê
Kông. Vấn đề môi trường được đặt ra như thế nào trong nhiệm kỳ của ông?
Mỹ có lợi ích gì đối với khu vực sông Mê Kông?
Vấn đề môi trường, biến đổi khí hậu là một trong những trọng tâm
trong quan hệ của Mỹ với VN. Chúng tôi muốn giải quyết các vấn đề này
thông qua các sáng kiến Hạ vùng sông Mê Kông. Việc xây dựng các đập trên
dòng chính Mê Kông sẽ đưa lại những hậu quả rất lớn với các quốc gia ở
hạ nguồn như VN. Mỹ muốn nói rõ với các đối tác khi họ lập kế hoạch xây
dựng các con đập, cần cân nhắc về hậu quả có thể gây ra cho các nước ở
hạ nguồn.
Biến đổi khí hậu và nước biển dâng sẽ có những tác động lớn đối với
đồng bằng sông Mê Kông. Chúng tôi rất ý thức vấn đề này và đã có những
dự án làm việc với phía VN, ví dụ như dự án với Đại học Cần Thơ về giám
sát khu vực sông Mê Kông. Trên cơ sở dự án này, chúng tôi sẽ đánh giá
ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và tính bền vững của khu vực.
Quan hệ thương mại đúng hướng
Mục tiêu trong phát triển quan hệ thương mại Mỹ - VN, ông muốn thay đổi chính sách gì của VN trong lĩnh vực này?
Khi hai nước ký Hiệp định thương mại song phương năm 2001, thương mại
hai chiều mới chỉ đạt 1,5 tỉ USD, sau 10 năm thì con số đã là 18,6 tỉ
USD. Năm 2010 mức tăng trưởng là 20% so với năm trước đó. Cá nhân tôi sẽ
không đặt ra cam kết cụ thể về gia tăng xuất khẩu của Mỹ sang VN, nhưng
chúng ta có thể thấy xuất khẩu của Mỹ vào VN đang tăng đều đặn và mục
tiêu của tôi là duy trì đà tăng này. Trong sáng kiến của Tổng thống
Obama về xuất khẩu có đặt mục tiêu tăng gấp đôi xuất khẩu của Mỹ trong 5
năm tới. Chúng tôi đang đi đúng hướng để đạt được mục tiêu đó trong
quan hệ thương mại với VN.
Trong các thảo luận với Việt Nam, chúng tôi luôn khuyến khích Chính
phủ VN làm tất cả những gì có thể để cải thiện giúp tăng xuất khẩu của
Mỹ sang VN, đồng thời cải thiện môi trường kinh doanh đầu tư của các
doanh nghiệp Mỹ tại VN. Chúng tôi sẽ làm việc rất chi tiết về vấn đề này
trong khuôn khổ đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Vừa qua có một số nghị sĩ Mỹ muốn đưa VN trở lại danh sách quốc
gia cần quan tâm về vấn đề tôn giáo. Xin cho biết quan điểm của Bộ Ngoại
giao Mỹ về vấn đề này?
Nếu tôi không nhầm thì VN từng nằm trong danh sách các quốc gia đáng
quan ngại về vấn đề tôn giáo hồi 2004. Những quy định pháp lý của Mỹ có
những định nghĩa chi tiết về việc một nước như thế nào sẽ được đưa vào
danh sách này. Khi VN đáp ứng được các điều kiện cụ thể, chúng tôi đã
đưa VN ra khỏi danh sách này và cho đến nay chưa có bất cứ quyết định
nào đưa lại VN vào danh sách này cả.
Chúng tôi theo dõi lĩnh vực tôn giáo trong tổng thể mối quan hệ với
VN rất chặt chẽ và chúng tôi cũng làm việc tích cực với các đối tác VN
về vấn đề này. VN đã có những cải thiện tích cực về vấn đề này và chúng
tôi mong muốn thấy có thêm những tiến triển…